Thứ Hai, 21 tháng 3, 2016

Lý tính và Tự do



Lý tính (rationalité) và tự do là hai đặc điểm của nhân loại. Hai đặc điểm ấy vốn dĩ đi kèm nhau và xuất hiện với nhân loại. Tuy nhiên, ta không thể nói gọn trong một câu: lý tính là gì và tự do là gì. Vì rằng tất cả lịch sử là một nỗ lực của nhân loại để tiến đến lý tính và tự do. Chính vì chúng ta còn trên đường để đi tới hai đặc điểm của nhân loại ấy, mà chúng ta chỉ có thể xem lại, xem lý tính và tự do đã thực hiện trong lịch sử nhân loại thế nào, và để dự phóng về tương lai một vài đường lối. Chúng ta có thể làm như thế, vì hai đặc điểm ấy đã xuất hiện trong các thành tích của văn minh, do cha ông chúng ta để lại.

Nhân loại phát triển theo hai phương diện: “biết” và “làm”, “kiến thức” và “hành động”. Chúng ta sẽ tìm lý tính và tự do dưới nhiều hình thức ở trên hai con đường tiến của nhân loại đó. Chúng ta không có ý nói rằng lý tính ở trong kiến thức và tự do trong hành động. Vì thực sự không có như thế: chúng ta sẽ tìm thấy trong mỗi phương diện trên kia, cả lý tính và tự do. Hai đặc điểm này vẫn đi đôi và bổ túc lẫn nhau.

I. – Kiến thức

Bên cạnh thế giới thực hành của hành động và của cần lao, bên cạnh thế giới đầy thi vị của thẩm mỹ, chúng ta còn có một thế giới hợp lý của kiến thức, do lý trí ta xây dựng. Thế giới này xuất hiện không phải vì bị các nhu cầu của hành động thúc bách, nhưng là vì chúng ta không phải là một cái máy tự động, thu nhận ảnh hưởng của ngoại vật rồi trả bằng sức phản ứng để tự vệ. Chúng ta còn muốn hiểu biết sự vật, muốn liên lạc được những kiến thức đã thu được cho thành một mối. Nếu không có liên lạc các kiến thức lại với nhau, nếu không liên lạc được hình thù cái bàn, sức rắn của gỗ với nhau, thì ta sẽ chỉ có một mớ kiến thức hỗn độn. Kết cục là ta sẽ chẳng hiểu một tý gì. Hiểu sự vật nghĩa là đem lại những kiến thức về sự vật, sắp vào một hệ thống.

Buổi đầu hết, lý trí đã tìm ra những mối liên lạc giữa sự vật. Muốn hiểu bản chất của sự vật, người Hy Lạp cổ cắt nghĩa rằng các sự vật, đều do 4 chất: lửa, khí, nước, đất mà ra. Hòn đá cành cây từ trên cao rơi xuống là vị trí chúng ở dưới; thế nghĩa là chúng có chất đất. Có người còn muốn hệ thống chặt chẽ hơn, nên tuyên bố: Vạn sự đều do nước mà ra. Người khác: vạn sự điều do lửa mà ra v.v.. Đồng thời với người Hy Lạp, người Tàu cổ cũng cắt nghĩa vạn vật một cách tương tự bằng thuyết âm dương, bằng thuyết ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Ngay trong lối cắt nghĩa còn phôi thai này, lý trí đã có ở trong để cho luận điệu tránh được mâu thuẫn và cho hợp lý.

Lối cắt nghĩa này sẽ trưởng thành và sinh ra khoa học. Khoa học phát sinh trong văn minh Hy Lạp và Aristote đã đặt các nguyên tắc làm nền tảng của khoa học. Theo ông, khoa học là cắt nghĩa sự vật cho hợp theo lý thuyết nhân quả. Từ đó, các khoa học đều lần từ quả tới nhân và đi một cách hợp lý thành hệ thống. Chúng ta sẽ lược qua công trình của nhân loại trong ba khoa học: toán pháp, khoa học thực nghiệm và triết lý.

Toán học

Toán pháp xây dựng trên mấy nguyên tắc căn bản minh bạch mà lý trí cho là đúng. Sau đó tất cả lâu đài của toán pháp sẽ tiếp tục theo phương pháp suy diễn. Người ta cứ dùng những cái gì đã biết để định nghĩa thêm những cái mới, và đi từ những cái đơn sơ đến những cái phiền tạp. Trong khi tiếp tục như thế, người ta không cần phải trở về kinh nghiệm thực tại, chỉ cần lập luận cho chặt. Thí dụ, người ta có thể đi từ phép cộng để định nghĩa được phép trừ, phép nhân, phép chia. Từ phép trừ người ta định nghĩa ra số tiêu cực, từ phép chia người ta định nghĩa ra phân số v.v.. Như thế toán pháp đã xây dựng được một thế giới của số, của hình lý tưởng, rất xa với thực tế nhưng lại rất hợp lý. Khi ta viết con số chẳng hạn như , ta không thể tưởng tượng được con số ấy là thế nào trong thực tế. Ta cũng không thể nghĩ đến thực tế của một số phi lý hay của một “développement en série”. Toán pháp đã vượt hẳn lên trên những cái ta cảm giác được. Đó là một tác phẩm thuần lý, đã đi tới đâu là chắc tới đấy, vì không bao giờ bị thực tế quấy rầy. Toán pháp đi lên trên hẳn thực tế và chỉ cần luận rất chặt. Lý luận của toán pháp vẫn được coi là mẫu mực của lý tưởng khoa học.

Khoa học thực nghiệm

Khoa học thực nghiệm, trái lại, vẫn đi sát hẳn với thực tế. Không những xây trên kinh nghiệm, mà còn thí nghiệm, nghĩa là tạo nên kinh nghiệm để khảo sát thực tế. Cũng như toán pháp, khoa học thực nghiệm đi từ đơn sơ đến phiền tạp. Vì thế bước đầu là phân tán thực tế ta những yếu tố rất đơn sơ, và tìm những nguyên tắc khách quan để ai nấy đều đồng ý trên những nguyên tắc khách quan để ai nấy đều đồng ý trên những yếu tố đơn sơ kia. Khoa học thực nghiệm gác bỏ những gì là chủ quan. Thí dụ: Đối với nhà Bác học không phải là kẻ cho tay vào nước mà không chịu được phải rút tay ra ấy là nóng, nhưng là cầm hàn thử biểu, cột thủy ngân có cao hơn 370 hay không.

Mục đích của khoa học thực nghiệm là tìm những định luật chi phối các hiện tượng xảy ra. Nhà thực nghiệm khi quan sát sự vật nhận thấy rằng, hễ có những điều kiện giống nhau thì cũng có những hiện tượng giống nhau xảy ra. Ông liền ghi lấy các hiện tượng và các điều kiện; và sau khi làm nhiều thí nghiệm, ông theo phép quy nạp là lập một định luật khoa học, khi đã được nhiều định luật về mỗi loại thực tế, ông lại tóm tất cả vào một hệ thống một ức thuyết phổ quát hơn. Chính vì định luật khoa học là bản tóm những thí nghiệm đã làm khi làm phép quy nạp, nhà thực nghiệm không được vứt bỏ một hiện tượng nào vào một loại với định luật ấy. Vứt bỏ là phi lý, là thiếu khoa học. Đàng khác thì khi đặt ra một định luật khoa học, ta còn có ý cắt nghĩa các hiện tượng về một loại ấy sẽ xảy ra. Đôi khi một hiện tượng mới có thể làm lung lay cả một định luật hay cả một ức thuyết: như hiện tượng giao thoa (interférence) trong quang học, làm đổ luật ánh sáng đi theo đường thẳng của thuyết phóng quang, muốn cắt nghĩa nổi hiện tượng ấy, người ta sẽ đi tới thuyết quang ba (onde lumineux) vì thế có một lịch sử khoa học thực nghiệm: các định luật và các ức thuyết tiến đến cho hợp lý hơn.

Triết lý

Sau khi xem qua về tiến triển của toán pháp và khoa học thực nghiệm, chúng ta phải nói dài hơn về khoa học thứ ba: Triết lý. Vì rằng các khoa học kia có một phạm vi nhất định, mỗi khoa học chỉ khảo sát một phương diện nhất định của sự vật, và không hề đặt vấn đề về chủ thể. Ngay những khoa học như tâm lý thực nghiệm cũng không đặt vấn đề chính nhà Bác học đang làm thí nghiệm và đang suy nghĩ về một ức thuyết tâm lý. Trái lại, phạm vi triết lý là tất cả thực tại: triết gia nhìn tất cả thực tại theo quan điểm tổng quát đồng thời đặt vấn đề về chính chủ thể của triết gia. Chúng ta có thể nói: các khoa học khác là công trình của lý trí, còn triết lý thì là vừa công trình của lý trí, và là chỗ ta khám phá ra tự do con người. Và cũng như đã xem hành động toán pháp và thực nghiệm, đây ta sẽ khảo về hành động triết lý.

Công việc của triết lý là nhìn tất cả thực tại và liệu cắt nghĩa bằng một hệ thống. Ta có thể xếp thực tại theo nhiều lối, theo nhiều quan điểm; cũng như trong trò chơi với mấy mảnh gỗ, ta có thể xếp thành hình cái nhà hay cái bàn v.v.. Vì thế có thể có nhiều hệ thống triết lý để cắt nghĩa thực tại. Công trình của Triết lý là một công trình của lý trí. Bởi thế, tuy rằng cái sáng kiến của triết gia hay sự ta chấp nhận một hệ thống, thì hệ thống ấy phải hợp lý. Chính vì cùng đứng trên lập trường hợp lý, mà triết gia này có thể hiểu triết gia kia có ý nói gì. Do đó, cho dù ta không cùng một hệ thống với người khác, ta cũng có thể đi vào hệ thống của họ để khảo xét. Ta có thể một đàng xem hệ thống ấy có hợp lý không, nghĩa là có tránh được mâu thuẫn không, các phần đoạn có ăn khớp chặt chẽ với nhau không. Đàng khác, nếu hệ thống ấy hợp lý, ta lại xem có bao trùm được tất cả thực tại không, vì triết lý phải nhìn theo quan điểm tổng quát.

Thường thì hệ thống triết lý nào cũng có một phần hợp lý và một phần là dự phỏng. Hai phần ấy ăn khớp với nhau một cách hợp lý. Nếu một hệ thống bị đánh đổ thì hoặc là vì có người bất đồng ý kiến với phần dự phỏng kia, hoặc là vì không cắt nghĩa nổi được tất cả thực tại, chứ không phải là vì phần hợp lý. Các yếu tố hợp lý do các triết gia đã khám phá ra gọi là “triết lý muôn đời” (philosophie éternelle). Hậu lai sẽ giữ lấy triết lý muôn đời như là kết quả của cuộc tranh đấu của nhân loại để tới lý tính và tới chân lý.

Triết lý có một lịch sử là vì nỗ lực của nhân loại để cắt nghĩa tất cả thực tại, chưa bao giờ đã thành công hẳn. Vừa phần con người bị hạn hẹp, không dựa vào trong hệ thống của mình được tất cả thực tại; vừa phần vì càng ngày nhân loại càng khám phá ra nhiều yếu tố của thực tại, những yếu tố đó phải được ghép vào hệ thống. Có khi một phát minh khoa học thực nghiệm, hay một phát minh của một hệ thống triết lý khác, có thể làm lật đổ một hệ thống triết lý. Công việc của triết gia là như công việc con dã tràng cứ phải xây phá, rồi lại xây để càng ngày càng tới gần chân lý. Triết lý khép kín kia là triết lý chết. Triết lý mà cho là chân lý đã nằm trong hệ thống mình rồi, là một thứ triết lý ngạo mạn. Độc đoán về tư tưởng đều ở thái độ ngạo nghễ ấy mà ra cả.

Hành động triết lý là thế. Rảo qua lịch sử triết lý ta sẽ nắm được vài điểm mà triết lý muôn đời đã khám phá ra. Những điểm ấy hậu lai sẽ không bao giờ quên. Chúng ta có thể chia lịch sử triết lý làm 3 giai đoạn theo các phát minh của triết lý.

a) – Giai đoạn thứ nhất là khi nhân loại bắt đầu triết lý cho tới Descartes. – Đặc điểm của giai đoạn này là khách quan. Các Triết gia đều quay cả ra ngoại vật, lấy thực tại bên ngoài làm đối vật, và tìm trong đối vật ấy các định luật siêu hình của thực tại. Đứng trước các định luật siêu hình (rất mực đúng nhưng cũng rất mực trừu tượng), cũng như đứng trước các định luật toán pháp hay thực nghiệm, lý trí chỉ có một thái độ là nhìn nhận. Triết lý ở giai đoạn khách quan này còn rất gần các khoa học khác. Cũng chính vì thế mà giai đoạn này cả khoa học thực nghiệm lẫn triết lý vẫn chưa tách làm hai ngành riêng biệt.

b) – Giai đoạn thứ hai là ý thức của lý trí. – Sau khi lý trí đã xuất ngoại, đã tìm cho ngoại vật những hệ thống hợp lý, thì bắt đầu có ý thức về mình. Lý trí nhận thấy năng lực của mình ở trong các công trình hợp lý đã xây dựng. Đến đây triết lý tìm được thêm một thực tại phải cắt nghĩa: chủ thể (sujet, subjectivité) và các khoa học khác tách rời ra khỏi chủ thể. Các khoa học ấy càng tiến, thì công trình của lý trí càng cao, và lý trí con người ta càng có ý thức về mình hơn. Công trạng ấy là của Descartes. Đồng thời với Descartes, Pascal tìm thấy sự tự do con người. Nhưng trước khi khai phá về lý trí, triết lý chưa đủ trưởng thành để khai phá về tự do.

c) – Giai đoạn thứ ba: khám phá ra tự do. – Sau khi khám phá ra lý trí, các triết gia lại quay về khai phá mặt đó. Họ đã khai thác được những vẻ xán lạn của lý trí con người: các hệ thống duy lý mọc ra như nấm. Ai cũng cho lý trí là nhất đến lượt I. Kant viết cuốn Phê bình lý trí thuần túy. Kant đã nhận định rõ rệt phạm vi của lý trí. Khi ta có kiến thức về sự vật thì lý trí tổng hợp tất cả lại một mối. Các dây buộc sự vật với nhau, thành hệ thống kiến thức, đều do lý trí tác tạo. Lý trí chỉ thu sự vật lại để cho ta hiểu sự vật lý trí là một cái gì phổ biến trong khắp nhân loại và không có dây liên hệ gì đến nhân vị của ta. Vì rằng nhân vị ta thì chỉ ta mới có, đời sống ta khác người khác là vì nhân vị ta khác nhân vị họ. Còn lý trí thì ai cũng có như nhau…. Chính nhân vị là cái Kant đã tìm ra. Có lý trí thì ta có nhân vị. Khi ta hành động, tranh đấu với ngoại vật để tìm con đường sống thì thức là nhân vị ta tranh đấu. Đặc tính của nhân vị là tự do. Từ Kant trở đi, triết lý muôn đời đã đặt vấn đề nhiều về hai đặc điểm của nhân cách: lý tính và tự do.

II. – Hành động

Trước khi có thể phóng họa ra vài nét về lý tính và tự do, chúng ta còn phải nói qua một ít về hành động vốn đi kèm với kiến thức mà ta đã lược khảo ở trên.

Hành động của ta có thể đi theo hai chiều: cần lao là hành động để biến đổi cảnh vật để con người có lối phát triển. Khi hoạt động ta phải tùy vào kiến thức của ta về sự vật. Và cần lao cũng phải đi đến chỗ hợp lý như kiến thức của ta. Nhưng khi ta định tâm suy nghĩ, ta định đoạt về đời ta, ta sẽ làm gì, ăn ở làm sao, đối với người chung quanh thế nào, thì những hành động này có hệ đến bản thân và sự nghiệp ta. Ta có một bản thân một sự nghiệp đời sống, ta không phải là vô vị. Dù sao ta cũng chọn một con đường sống, nghĩa là ta đặt cho đời ta một mục đích. Sau đó tất cả hành động của ta đều quy về đó cả.

Cũng như về kiến thức, ta đang cố gắng tới một hệ thống có thể bao trùm được tất cả. Hệ thống ấy ta chưa có, vì kiến thức ta ngày một thêm nhiều. Càng nhiều kiến thức, ta càng trông thấy cái bao trùm được kiến thức một cách rõ rệt hơn. Cái ấy là lý tính mà ta đang theo đuổi. Cũng thế, trong đời ta, ta không thấy mục đích đời ta một cách rõ rệt. Ta chỉ thấy những giá trị phải phụng sự cũng như về kiến thức, ta không thấy lý tính mà chỉ thấy một phần của lý tính tản mác trong các khoa học. Trong khi phụng sự những giá trị mà ta thấy, ta có thể trông một cách lờ mờ mục đích của đời ta.

Tuy nhiên, không phải vì thế mà đời ta không có gì hợp lý. Khi ta nhất định phụng sự một giá trị thì hành động của ta phải quy về đấy cho hợp lý. Ta có thể nêu ra vài ví dụ:

Nếu ta phụng sự giá trị “giúp người ốm”, ta có thể làm khán hộ hay là y sĩ. Nếu định làm y sĩ thì có khi bây giờ ta mua cái xe đạp để đi học, khi đi học, ta vào trường thuốc chứ không vào trường bách nghệ; khi ở trường ta viết, ta đọc, ta thí nghiệm, tất cả đều để ta có những kiến thức về y khoa, ta có được những kiến thức ấy để có thể đi thực hiện việc giúp người ốm.

Nếu ta định tập đàn, thì những việc như đi học, mua đàn, tập đàn đều quy về đấy. Bên trên mục đích ấy ta có thể có mục đích tổng quát hơn, như phụng sự nghệ thuật.

Một thí dụ nữa: nếu ta yêu một người nào thì ái tình sẽ là cái trụ cho hành động ta. Từ việc viết thư, từ việc mua hoa cho tới lời ăn tiếng nói, khi gặp gỡ đều có ý để người ta biết rằng ta có yêu và để giữ ái tình cho lâu bền. Những việc có vẻ rất nhỏ nhen tầm thường như chải đầu, đi dạo phố, hay học tập đều rất có thể đưa ta đến giá trị ái tình.

Qua ba giá trị “giúp người ốm”, “nghệ thuật”, “ái tình”, ta còn có thể nắm một giá trị phổ biến hơn như: “phụng sự nhân vị” hay “ để tới một thế giới nhân vị”.

Như thế, đời ta không phải chỉ là một chuỗi những công việc không có liên lạc gì với nhau. Các giá trị ta theo đuổi sẽ hợp những hành động của ta vào một mối và cho chúng một nghĩa lý. Tất cả các hành động khoa học của ta cũng chỉ có nghĩa lý khi chúng được theo đuổi vì mục đích.

Càng quy tất cả hành động của ta vào một giá trị phổ quát thì ta càng sống theo lý trí. Chương trình đời ta là một chương trình hợp lý. Nhưng chúng ta vẫn còn trên đường để tới đời sống lý trí, vì đời chúng ta chưa có thống nhất, ta chưa trừ khử được những hành vi phi lý và vô nghĩa lý trong đời ta.

III. Lý tính

Sau khi đã trình bày đại khái các đường phát triển của nhân loại, bây giờ ta có thể hỏi: Thế thì trong những bước đường ấy, cái gì là lý tính, cái gì là tự do?

Chúng ta có thể trả lời ngay rằng trong kiến thức, cả trong hành động của nhân loại, đều có cả hai đặc điểm của nhân tính: lý tính và tự do. Nhưng cho đến bây giờ ta vẫn chưa hiểu suốt được hai đặc điểm ấy. Bao giờ tới được lý tính và tự do hoàn hảo, ta sẽ có thể định nghĩa minh bạch; nhưng tới được chỗ đó, tức là hết lịch sử nhân loại. Chúng ta còn đang tiến, và những nét ta phác được bây giờ, có khi sau sẽ bị hút vào những giới khác và quan niệm chúng ta sẽ hoàn hảo hơn.

Sau đây là mấy nét họa của lý tính:

Ta thấy lý tính ở trong ta như một sức mạnh thúc đẩy ta suy nghĩ và luôn luôn phê bình đường lối của mình để tránh hết những gì là vô cơ sở: không phải cứ để ý ra mà kiến thức và hành động ta đi tới chỗ hoàn hảo. Lý tính là một hành động lôi ta ra khỏi chỗ ù lỳ, lười biếng.

Có khi vì cảm tình ta sôi nổi và vì có thiển kiến sẵn mà thái độ ta không được chân chính, khi ta cố tình xảo quyệt thêm bớt những yếu tố phi lý vào hệ thống khoa học hay tư tưởng của ta để bênh cho học thuyết ta và để lừa bịp những người quá tin ở ta. Thiển kiến có khi còn làm cho ta ngạo nghễ, độc đoán, không chịu nghe người khác phát biểu ý kiến; cho rằng đấy là tư tưởng, là khoa học của giai cấp, của chủng tộc. Thực ra lập trường lý tính có tính cách phổ biến, những ai có nhân tính đều phải nhận, và nếu loài người không còn có thể nghe nhau trên lập trường lý tính, thì chỉ còn một phương pháp công hiệu là võ lực để bảo nhau. Lý tính sẽ là chiếc búa đập tan những cảm tình, những thiển kiến vô bằng kia, để kiến thức chúng ta hợp lý và xác thực, và để chúng ta khỏi sa vào trạng thái dã man.

Ta có thể tóm lại rằng: Lý tính có tính cách phổ biến, phổ biến đây có thể hiểu theo hai nghĩa:

a) Đối với sự vật ăn sâu vào hết mọi khóe cạnh, vì thế khoa học (thực nghiệm và triết) không được vứt bỏ một yếu tố nào của thực tại ra ngoài những phạm vi khảo sát của mình, và hành động của ta cũng không được đi một cách vô lý như không có mục đích.

b) Đối với các chủ thể chỗ nào đã có lý tính ăn rễ vào thì những ai có nhân tính đều nhận là phải cả. Đặc tính thứ hai của lý tính là thống nhất: chúng ta đã thấy nỗ lực của kiến thức ta để đi tới một hệ thống duy nhất, và nỗ lực của đời sống nhân bị ta để quy hành động vào một mục đích bao trùm được tất cả những giá trị ta đã theo đuổi.

Cũng như lý tính chưa thực hiện được hoàn toàn, thì hai đặc điểm phổ biến và thống nhất của kiến thức và hành động ta, cũng đang còn chập choạng bước tới chỗ hoàn hảo.

Hơn nữa, chúng ta còn nhận thấy lý tính xuất hiện dưới nhiều hình thức. Các hình thức ấy khác nhau, lý tính ở toán pháp, ở khoa học thực nghiệm, ở triết lý và ở hành động ta không bị ghim vào một lối. Nhận định lý tính của khoa này mà không nhận của khoa khác đó là thái độ vô lý. Thí dụ lý tính của khoa học thực nghiệm không phải là tất cả lý tính, một đàng vì khoa học thực nghiệm chưa tới được tận cùng lý tính của mình, đàng khác vì lý tính ấy bị giới hạn vào thế giới thực hành. Nghĩa là nếu không cần thực hành thì người ta cũng chỉ coi nó như một thứ kiến thức thuần lý để cho sướng trí khôn. Chính vì nhân loại cần phải hành động chung nhau để biến đổi sự vật mà khoa học thực nghiệm có ý vứt bỏ hết những gì là chủ quan để có một phạm vi mà mọi người đều hoàn toàn đồng ý. Người ta có thể hợp lý hóa tất cả đời sống con người để có thỏa thuận trong cả nhân loại. Nhưng càng đi như thế thì con người càng bị què cụt: vì khoa học và kỹ thuật đã phủ nhận các hình thức lý tính khác và phủ nhận cả tự do của con người.

VI. – Tự do

Tự do là gì?

a) – Chúng ta đã thấy kiến thức và hành động ta được thấm nhuần do lý tính. Nhưng không phải vì thế mà không có tự do trong đó. Lý tính lan rộng ra là vì có tự do. Tự do làm cho ta không chịu đứng lại ở những kết quả đã thu được. Và chính khi ấy thì tự do đi dò đường lối, rồi bước thử vào trước, lý tính sẽ theo sau với các phương pháp của mình để khám xét lối đi xem có hợp lý không. Đấy là về kiến thức. Thí dụ nàh khoa học nghĩ ra ức thuyết sóng điện từ (ondes électromagnétiques) để cắt nghĩa ánh sáng. Thế thì việc nghĩ ra ức thuyết rồi định tâm khảo cứu và chọn phạm vi thí nghiệm đều là tự do. Còn việc thí nghiệm và nhận thấy rằng ức thuyết ấy không cắt nghĩa nổi hiện tượng điện quang (photoélectrique) và vì thế ức thuyết ấy không đúng hẳn, việc ấy là về phạm vi lý tính. Trong phạm vi kiến thức, tự do vẫn đi trước soi dẫn cho lý trí đường sẽ đi. Tư tưởng triết lý thành nhiều hệ thống là vì triết gia mỗi người chọn một lối khảo sát thực tại. Độc đoán về tư tưởng là chỉ biết nhận tự do cho mình mà không chịu nhận rằng người ta có thể nhìn chân lý bằng muôn vàn khía cạnh nghĩa là không chịu nhìn nhận tính cách tương đối và hạn hẹp của mình và cho tư tưởng mình là chân lý tuyệt đối. Ta có thể coi tự do là sức tiến bộ và lý tính là sức bảo tồn. Có tự do thì mới thấy nhiều lối để leo lên cao, có lý tính thì bước mới vững để khỏi phải trụt xuống. Công trình của Lý tính là bảo tồn được tất cả những gì tự do đã khám phá ra.

Trong hành động ta cũng thế. Tuy rằng sau khi nhận phụng sự một giá trị nào, ta có thể tổ chức hành vi ta cho hợp lý. Nhưng chính sự trông thấy và định phụng sự là tự do rồi. Giá trị ta phụng sự là cái gì chưa có ở thực tại nếu ta trông được thì không phải là vì lý trí. Trong thế giới đồ vật thì giá trị là do ta tạo nên, tùy như ý hướng của ta. Cái chai thủy tinh có giá trị là để đựng, khi ta dùng nó để mà chứa rượu, nhưng khi ta có ý đánh ai thì cũng cái chai ấy có giá trị là khí giới. Giá trị của các đồ vật chỉ là những giá trị còn nghèo nàn, chưa phổ biến lắm. Lên đến phạm vi nhân vị thì giá trị một phần do ta tác tạo và chấp nhận, một phần không tùy gì ở ta. Thí dụ việc trọng nhân vị người khác là do ta muốn hay không, nhưng ngay khi ta không muốn thì ta cũng tự nhận rằng nhân vị là đáng trọng.

Thường người ta cho rằng hễ có thể lựa chọn tức là có tự do, như thế nghĩa là nếu nhìn khách quan thấy có nhiều lối thì tất nhiên phải có tự do. Nhưng không, tự do là năng lực của con người có thể dấn thân vào một gái trị (giá trị ấy có thể là khoa học). Tự do không phải là công việc của khoảnh khắc. Đó là nỗ lực để dấn thân (s’engager) mãi vào giá trị ấy. Thực ra một giá trị bao giờ cũng trừu tượng, sự dấn thân của ta chỉ có nghĩa khi nó đi xuống tới phạm vi cụ thể, qua tất cả các giá trị cụ thể hơn. Vì chính lúc bấy giờ ta có thể chọn các giá trị cụ thể hơn ấy. Mỗi lần chọn xong ta lại có trước mắt nhiều ngã đường, thí dụ ta chọn phụng sự quần chúng. Đây là một giá trị phổ biến. Muốn phụng sự quần chúng, ta có thể làm về quần chúng giáo dục hay làm về công đoàn, v.v., chỗ này ta có thể chọn. Nếu chọn công đoán, ta có thể liên lạc với chủ, hay giáo dục cho anh em trong công đoàn. Nếu chọn ngành thứ hai, ta có thể giáo dục kinh tế, xã hội hay chính trị v.v.. Và có khi xuống tới chỗ cụ thể là ta đang ngồi viết một bài báo về chính trị hay một tờ giấy mời đồng chí họp. Khi nói về tự do như thế, ta có ý tránh không nói đến tự do như nhiều người quen hiểu: là muốn làm gì thì làm. Thứ tự do này là một thứ tự do giả hiệu, chỉ có thể có trong một thế giới hỗn độn và vô nghĩa lý, và trong một đời người vô nghĩa lý. Nói thế khác, chúng ta không thể có thứ tự do ấy. Vì rằng khi ta muốn hành động, thì tự do ta phải đặt lên trên các định luật của vũ trụ và các định luật hợp lý của lý trí. Ta không thể có tự do bơi thuyền ở chỗ nước đông, ta không thể có mặt ở hai nơi, ta không thể làm cho 2 + 2 là 5.

Trước khi bàn thêm về tự do, ta nên chú ý tới một điều là lý tính và tự do là hai quan điểm khác nhau hẳn. Có khi trong hành động, ta quen nói: “xử lý thì thế này, xử tình thì thế kia” câu ấy có thể hiểu thế này “nếu tôi nhận một giá trị cũ mà mọi người nhận cả (tự do) thì hành vi của tôi sẽ thế này (lý tính = hợp với điều tôi vừa nhận). Nếu tôi chọn một thái độ thân tình (tự do) thì hành vi của tôi sẽ thế kia (lý tính = hợp với thái độ tôi có)” chứ không phải có một thứ hành vi hợp lý, một thứ hành vi tự do và vô lý. Vì thế dù trong khi yêu ai (tự do) thì hành vi cũng không được vô lý, vô nghĩa: nghĩa là không bao giờ có tự do mà không hợp lý. Tự do không phá đổ lý tính để trở về phi lý.

Chính vì tự do và lý tính là hai quan điểm khác nhau mà cả hai không ở chung trong một phạm vi. Tự do không phá đổ lý tính, lý tính không hạn chế tự do. Tự do là chấp nhận: có khi chấp nhận cái hợp lý có khi chấp nhận cái vô lý. Tự do còn có thể là chấp nhận cả những gì cao hơn lý tính, nghĩa là những cái mà lý trí không đủ lực để xét có hợp lý hay không (Trong thế giới khoa học và thế giới các đồ vật, không có gì là trung gian giữa vô lý và hợp lý).

b) – Trên đây ta đã nói về lý tính và tự do trong những phạm vi mà người ta có thể lẫn được hai cái với nhau: kiến thức và thực hành. Bây giờ ta nói riêng về tự do và thế giới của tự do, mà trên kia ta đã vạch ra vài nét cụ thể hơn. Nói đến tự do, ta không thể không nói đến các giá trị vì có tự do thì các giá trị mới có nghĩa lý. Giá trị không phải là một cái gì riêng biệt xa bên ngoài thế giới khách quan, các giá trị ở trong thế giới của sự vật, và ăn khớp với nhau, liên lạc với nhau thành một thế giới khác ở trong thế giới khách quan. Nói thế khác: đứng trước sự vật ta có thể có nhiều thái độ, nhiều ý hướng. Nếu thái độ ta là thái độ khoa học vật lý, ta sẽ trông thực tế là những phần tử vật chất có các hình thù có trọng lực và tốc độ khác nhau. Nếu thái độ ta là hóa học: ta sẽ thấy các nguyên tử, các phân tử tan hợp trong bất kỳ đồ vật gì. Triết gia theo St. Thomas sẽ thấy vũ trụ này đầy những thực thể, triết gia theo Hegel sẽ tìm thấy ý tượng ở khắp mọi nơi. Đấy là nói về kiến thức. Khi ta hành động, thì ta không còn thế giới vô vị lợi như về kiến thức. Thế giới thực hành sẽ đầu những dụng cụ, những tổ chức hợp với nhau thành thế giới thực hành; bất kỳ một dụng cụ nào cũng liên hệ đến tất cả thế giới này. Thí dụ khi ta ngồi cầm bút viết một bài để đăng báo thì cái bút của ta nhắc tới xưởng máy đã chế ra nó, đến những người thợ, đến những kỹ sư, đến những thứ máy đúc bút, đến xưởng chế ra các máy ấy, các mỏ để lấy kim khí làm máy, làm bút, đến xe cộ đã chở vác vật liệu, v.v., nghĩa là cái bút của ta nhắc tới tất cả một nền văn minh kỹ thuật của ta, đến tất cả các tổ chức kinh tế của thời ta sống.

Khi ta muốn thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên thì ta mặc cho núi non những khúc uốn tài tình, trái lại khi ta muốn vượt lên núi thì ta lại cho là dốc núi hiểm trở. Khi ta buồn thì ta trông “lá sen tan tác trong đầm, nặng mang giọt ngọc âm thầm khóc hoa”, khi vui thì hoa cỏ đều mỉm cười.

Nhưng trong những giây liên lạc với nhân loại, ta còn có nhiều thái độ hơn là đối với cỏ cây, với đồ vật. Đối với mỗi người, ta có một thái độ khác, và ta đóng rất nhiều vai trò, có lúc đóng vai cha, có lúc khác lại đóng vai lại đóng vai một người tình. Mỗi khi đóng một vai thì ta tổ chức thân xác, hành vi và thế giới ngoại vật, tùy theo người đối diện. Và tùy từng hoàn cảnh thế giới bên ngoài và hành vi ta lại mặc một ý nghĩa khác. Thí dụ bàn tay của một thầy thuốc khám bịnh, khác xa một bàn tay người tình vuốt ve, tuy rằng xét khách quan, có khi cũng chỉ là những cử chỉ như nhau.

Tuy nhiên, ta đừng tưởng tự do ta là một thái độ tiêu cực: nhìn nhận thực tế và đặt một ý nghĩa cho nó như kiểu người tù, bị chở đến chỗ đầy ải thì có thể nhìn phong cảnh như một khách du lịch, bị giam vào ngục thì lại có thể cho nhà tù là nơi dưỡng lão. Hay như một nhà tu hành không ăn không uống vì cho rằng mình tự do và thắng được đói khát. Đành rằng đó là tự do, nhưng chỉ là quan điểm chủ quan. Nếu là quan điểm chủ quan không có quan điểm khách quan bồi bổ, thì tự do cũng không bổ ích gì mấy cho vận mệnh của con người. Trái lại như ta đã thấy tự do là một thái độ tích cực: cái ý nghĩa chủ quan ta có thể đem nó vào trong vũ trụ cho nó mặc một hình thức khách quan. Chính vì thế mà tự do có thể làm đổi điều kiện sinh sống của ta, có thể xoay chiều cho lịch sử, cho văn minh. Hơn nữa, chính vì tự do con người đã nhập thể vào trong vũ trụ, trong kiến thức và hành động mà dần dần ta mới khám phá ra ý thức tự do, rồi sau đó tự do chủ quan và tự do tiêu cực.

Như thế thì ta thấy cái đặc điểm lớn nhất của loài người là có thể tạo nên rất nhiều thế giới, nên các giá trị trong các thế giới đó và sống trong nhiều thế giới khác nhau. Con người càng sống trong nhiều thế giới thì càng phát triển. Những người có bệnh tâm lý là những người chỉ biết sống trong một thế giới. Một nhà bác học mà không bao giờ biết ra khỏi thế giới nguyên tử, sẽ không thể nào sống được trong thế giới nhân loại.

Chính cái năng lực tạo nên các giá trị và các thế giới khác nhau là tự do của con người. Khi tự do phát triển thì con người nhận được nhiều thế giới mà thế giới lý tính của khoa học chỉ là một trong muôn vàn thế giới ấy.

Cũng vì tự do đã tạo nên các thế giới ấy, mà con người có thể bỏ một thế giới để sang một thế giới khác: sau khi nhìn thế giới khoa học sau các thứ máy, nhà bác học có thể thưởng thức một bản nhạc mà không nghĩ đến sự chấn động của khí trời để thành thanh âm, một bức họa mà không nghĩ đến những ức thuyết cắt nghĩa các màu sắc, và có thể đi vào thế giới của sinh lý học; nhà tâm lý học có thể giao thiệp với người chung quanh theo tình nhân loại mà không nghĩ đến truyện phân tách tính tình, v.v. Cũng năng lực ấy làm cho khoa học tiến bằng cách dự phỏng các kinh nghiệm và ức thuyết.

Sau cùng nhờ có tự do mà con người có thể vượt lên trên hiện tại để dự phỏng trong tương lai tất cả các thế giới hiện có và dự phỏng những thế giới hoàn hảo hơn. Đấy mới là đúng tự do của con người.

Chối bỏ tự do là phá đổ nhân tính hay làm cho con người bị què cụt vậy.

TRẦN-VĂN-TOÀN

Nguồn: Tạp chí Đại Học, Viện Đại học Huế, số 1, tháng 2-1958, trang 28-39. Bản điện tử do triethoc.edu.vn thực hiện.

Thứ Năm, 3 tháng 3, 2016

10 Secrets for Developing a Millionaire Mentality

As a millionaire, I've learned that most people want to know the truth about wealth.
Many people believe that the only way they can become a millionaire is if they marry it, inherit it, or save it. While they have a point, the only people who become millionaires are the ones who earn it. 
That's right, most millionaires aren't lucky people who randomly found their paths or have been born into it. Instead, they are ordinary people who selected a large goal and worked steadily toward it. 
There's no easy way to become wealthy, but there are many options to earn your fortune. Whether you're starting a business, developing a high-end career, investing your money, or become a professional entertainer, you must develop a millionaire mentality.
When the mind is ready, the money will come.
No one can achieve wealth by harboring erroneous thoughts. Instead, you must constantly battle the enemy in your mind to find the wealth of your dreams. Moreover, the secret to your wealth is to manifest righteous thoughts and deeds as you accomplish your biggest goals. 

1. Practice integrity.

Many people think they must sacrifice their integrity to become a millionaire. They assume that rich people cheat on their taxes or swindle people to become rich. Actually, it's the exact opposite. You can only become a millionaire if you practice integrity. Money only comes to those who can be trusted with it. 
Integrity is the cornerstone to developing a millionaire mentality. Like a thoroughbred horse galloping past the finish line, only winners with integrity can sustain reasonable speeds for long stretches of time. If you've entered the race without integrity, you will fail to win the ultimate trophy of wealth. Practicing integrity is the backbone of truth wealth and prosperity.
Integrity is telling yourself the truth. Honesty is telling other people the truth.

2. Become social.

Since the new millennium, social entrepreneurs can make tremendous financial strides by expanding their influence. Oftentimes, fame can be a prerequisite of wealth. Nowadays, you can strategically build a following while attracting a large number of people to your services. Becoming influential can dramatically increase your wealth.
Instead of reaching out to people, you can have people reach out to you. Many influential people are constantly fed opportunities because of the value they’ve added to their fans. Furthermore, you must have the right team with the right strategy if you want to consistently see results in the financial column. 

3. Pay the price.

A woman walked up to a grand pianist and said, "I'd give anything to do what you do!" His rejoinder was simple, but pungent: "Yes, except 20 years at 8 hours per day." The key to success is straightforward--pay the price. Those who pay now will be able to play later. Conversely, those who play now will to pay later. Either way, your life demands a payment. 
Depending on your desires, you can set the wager of the price you'd like to pay. If you want massive success, you have to pay a massive price. If you want a modicum of success, you have to pay an infinitesimal price. Moreover, becoming a millionaire is a steep price that requires great risks. Those who pay the price by abiding in their daily habits will receive long-lasting success. Are you willing to pay the price?
Everything we do is a reflection of who we are.

4. Control your mind.

If you want to develop a millionaire mentality, you must have complete control of your mind. By feeding your mind with seeds of positivity, you keep the noxious weeds away from infiltrating your mind. While most people on the internet indulge in miscellaneous information like 'memes' and other short-term distractions, you should constantly be seeking new ways to properly entertain, inspire, and educate your mind.
The average person doesn't know why they do what they do. For instance, a formerly obese woman told me this truth, "I used to eat so much every time I had a bad thought. Little did I know that I was 'eating away my emotions.'" When you control your thoughts, you master your feelings, which can lead you to take the best actions. Where are your thoughts taking you? 
Remember this sequence: Thoughts>>>Feelings>>>Actions.
To change your reality, you must change your mentality.

5. Acquire skills.

You need the skills to pay the bills. In our world, many people relish the term 'jack of all trades, master of none.' Jacking up a new trade isn't going to make you rich, but mastering one will. Money only comes to the practitioner of excellence, not the amateur who performs with average ability. If you want to be a millionaire, you must become an expert at what you do.
Challenge yourself by seeking to acquire the necessary skills to achieve your desired wealth. Generally speaking, the richest people on earth have the most skills and are known for their expertise. Here's a simple guideline: If you're putting in at least 8 hours per day to intensively craft your skill, your expertise should make you a millionaire within 5 years, assuming your industry has a high-profit margin.
The marketplace is always conditioning ambitious people to become better.

6. Master your language.

Our level of income is largely determined by our level of communication. However, it can be challenging to cultivate your language when most of the people around you are murdering it. Since we borrow our language from those who haven't fully appreciated it, we must be conscientious when taking deliberate steps to change it. 
Poor speech cannot be hidden. Like bad breath, the person with uneducated speech is usually unaware of his or her problem. Those who are lazy with their language must suffer the repercussions of lost opportunities. Failure to wield your words correctly will keep wealth away from you. Everyone should keep at least a dozen English books in their homes. Personally, I read the dictionary at least ten minutes per day.
Words are the tools that release the heavens of our mind.

7. Follow the truth.

An ancient prophet once said, "The truth will set you free." Fortunately, our results tells us the truth about ourselves. It reveals what we've learned, what we've done, and how much we've served. What are your results saying about you? Whether you like it or not, those results will give you feedback on what you may need to change. The prevailing truth stands the ultimate test of time.
Your wealth is the sum total of your entire contribution to society. Your rewards derive from your level of service to the marketplace. If you don't like your rewards, find a way use the truth to create better results. If you do like your rewards, use the tonic of truth to reach a higher level of results. Ask this question: How will I deliver more value to more people in less time?
Your rewards are determined by your contribution to society.

8. Never compete.

"Competition is a sin.'' - John D. Rockefeller
Most people feel like they must compete to stay ahead. However, competing actually keeps you behind. Competition forces you to copy someone else’s style instead of creating your own. Over time, competition will wear you out because you’ll always try to be better than someone else, rather than being yourself After all, if you’re trying to be everyone else, who will be you?
One day, a prospect advised: "We're shopping around with other companies. We'll get back to you." Instead of worrying about if I would get the business or not, I called them back immediately, "Look, if you're shopping around, I don't want to work with you." Startled and perplexed, they asked, "You mean you're willing to let us go if we check with your competitor?" Within an hour, I closed my biggest deal of my life.

9. Respect money.

Most people don't get money simply because they don't respect it. You often hear people saying, "Money isn't everything" or "I don't need the money." Because they've downplayed the value of money, they won't have much of it. Financial rewards are attracted, not pursued. What are you doing to attract money to your bank?
Money deserves respect. To respect money more closely, you must be diligent in your financial affairs. This means that you've developed the following habits: saving money, paying your bills early and willingly, knowing the account balance(s), communicating with your spouse, budgeting, etc. When you respect money, you will be able to have more of it. If you can take care of $1,000, then $10,000 will come your way.
"Those who are faithful with little will be faithful with much.'' -Ancient Phrase

10. Aim higher.

Earning $1,000,000 per year is the same as earning $100,000 per year. The difference is in how high you've aimed and your degree of intensity toward your goals. If you set goals big enough to break records, win honorary doctorates, and reach the highest tax-bracket, you will most likely to achieve them. How high will you set your goals?
Most people don’t aim high enough because they are caught up in the daily grind of life. They’re too busy running into the trees, instead of retreating to the mountaintop to catch a glimpse of the entire forest. Take a moment to see the bigger picture. Set your goals so high that they scare you. If they don't scare you, they won't prepare you!
If you believe in yourself, everyone will believe in you.
To develop a millionaire mentality, you need to constantly dwell on improving yourself on a daily basis. When you find the appropriate solutions, resolve to take action toward your dreams. Always change your approach and seek new ways of becoming the best at what you do. Your biggest goals will stretch you to become more of who you are. See you at the mountaintop!

3 Truths Every Millionaire Knows About Money

There's so much to know about the subject of money.
Money is an unlimited subject. However, like any subject, you can learn as much as you want about money. Personally, I've devoted my whole entire life to understanding money and the way people feel toward it.
Có nhiều cách để biết về tiền
Tiền là một chủ đề khá rộng. Tuy nhiên, giống như bất kỳ chủ đề nào, bạn có thể học nhiều như bạn muốn tiền. Cá nhân tôi, tôi đã dành cả cuộc đời để hiều tiền bạc và cách mọi người hướng về nó.
For 21 years of my life, I experienced poverty on the deepest level. Because of this, at age 21, I decided to take my life into my own hands. Over the years, I've developed the understanding of what it takes to go from negative $100,000 in debt to complete financial independence within a relatively short period of time.
Trong 21 năm, tôi đã kinh nghiệm sự nghèo khổ ở mức độ sâu nhất. Bởi vì, lúc 21 tuổi, tôi đã quyết định dành cả cuộc đời trong tay mình. Những năm qua, tôi phát triển sự hiểu biết những gì nó diễn ra từ nợ $100,000 đến độc lập tài chính hoàn toàn trong thời gian ngắn.
Obviously, we all need to understand that there are three stages of dealing with money: Learning, Earning, and Returning. If you want wealth, you must learn about your thoughts, feelings and actions toward money. Then, you must start to find a way to earn your way in this world. Along the way, you return yourself and your money in the best way possible. 
Here are three truths every millionaire knows about money:
Tất nhiên, tất cả chúng ta cần hiểu có 3 mức độ đối sử với tiền bạc: Học hỏi, kiếm tiền, và hoàn lại. Nếu bạn muốn giàu có, bạn phải học về suy nghĩ, cảm xúc và hành động của bạn về tiền bạc. Sau đó, bạn phải bắt đầu tìm cách kiếm tiền theo cách của bạn trong xã hội. Đồng thời, bạn phản hồi chính bạn và tiền của bạn trong cách tốt nhất có thể.
Đây là 3 sự thật mọi tỉ phú biết về tiền:

1. Be a serious student.

If you want to learn about money, you must study it closely. You can find countless numbers of successful people who wrote books and articles, gave seminars and produced videos on the subject. All of these resources are readily available to you. Moreover, if you want to learn about money, don't depend on your parents, school, work or other organizations to teach you about it. You must take matters into your own hands.
1. Là một học sinh nghiêm túc
Nếu bạn muốn học về tiền, bạn phải nghiên cứu nó rất sâu sắc. Bạn có thể thấy vô số người thành công mà viết sách và bài viết, đã tổ chức các hội thảo và làm video về chủ đề này. Tất cả nguồn cung cấp có sẵn cho bạn. Hơn nữa, nếu bạn muốn học về tiền, đừng phụ thuộc vào cha mẹ, trường học, co
When I began my journey to wealth, I consumed read books copiously. I highlighted, underscored, bookmarked, recorded and reviewed every piece of wisdom I could find. When I got to the "about the author" section, I researched and called upon the author to have a conversation, connecting nearly half of the time. I also attended dozens of seminars and learned from every rich person I found.
If you want more money, you need to learn from rich people. Most of the people around you cannot teach you about wealth because they know very little about it themselves. That's why I wholeheartedly believe that you should hire a professional coach. Once you do, you can apply your knowledge to advance to the next level. 
Besides reading books and talking to people, I learned about living a wealthy lifestyle by doing wealthy activities: visiting museums, test-driving luxury cars, touring mansions, indulging in fine restaurants, etc. Your financial education can come in various ways. If you constantly put yourself in wealthy places, you will become a wealthy person!
As Mark Twain warned, never let schooling interfere with your education.

2. Don't save money.

If you want to become a millionaire in under 10 years, read this section very carefully: Don't save ALL your money if you want explosive wealth. Let's say you're a healthy person between the ages of 18-55 and have an income of $50,000 per year. If you work for the next ten years and save 10 percent of your money, you'll be able to save $5,000 per year, which will be $50,000.  
However, if you poured the majority of your yearly $5,000 into your personal and professional development, your income will steadily rise each year. For example, in my first three years, I've more than quintupled (5X) my income. I didn't start saving money until my 3rd year, which was when I became a millionaire. Each year, I invest more and more money into my coaches and programs that help me grow.
Even if you invest half of your yearly savings ($2,500) in yourself, your income would still increase rapidly. It might look like this over five years: Year 1: $50,000, Year 2: $65,000, Year 3: $95,000, Year 4: $125,000, Year 5: $200,000. As you can see from this projection, money would be easy to save by years three to five. Imagine if you kept up with this cycle for 10 or more years! 
Most of us are taught to "save for a rainy day." Instead, invest in "sunny days," which are days of growth and prosperity. Moreover, if you keep investing in yourself, you'll be able to buy an umbrella to keep dry when "rainy days" come. This unconventional advice might sound risky, but those who are able and willing to do it will enjoy the journey because of their constant advancement. Eventually, you’ll also be able to save more money in the long-term.
Your level of income will never surpass your level of personal development.

3. Know your money.

A surprising amount of people do not know their financial affairs as well as they should. In fact, most people put their personal finances on "auto-pilot" and acquiesce in life without checking the facts. The following systems prove this: direct deposit, bonuses, taxes, receipts, retirement plans, interest rates, credit cards, donations and college loans. 
Here are some examples of financial disasters:
  • College students who don't know how much money they owe or even how much they've paid.
  • The average citizen who doesn't know where their taxes and tithing are being distributed.
  • The majority of people who discard their receipts when they get home.
  • Salespeople who don't know what their commissions or bonuses will be on payday. 
  • The 90 percent of people in the world who face anxiety when the monthly bill arrives.
  • The direct depositor who automates all of their bills for decades and never has savings because of it.
  • The credit card holder who pays exorbitant interest rates, penalties, and fees.
  • The overwhelming massive number of people who let their employers handle their retirement planning, health benefits and life insurance.
A life insurance agent told me a story about a woman who had her insurance policy automatically deducted from her paychecks every month. After a while, she forgot that she was paying $100 per month. However, she was greatly dissatisfied when she found that her bill skyrocketed to $1,200 per month because of her husband's age. She ended up paying over $12,000!
Incurring unnecessary fees should always be avoided. A simple way of handling this is by monitoring every dollar you spend on a monthly basis. Keep a ledger nearby and talk with your spouse about money. Never let a dollar slip past your sight. Overall, you should know exactly what's in your bank account and face the truth about your personal finances.
Take your money seriously. Don't avoid it by delegating or automating it! Handle your money directly and be sure to keep track of all your expenditures. Always be willing to get help from people who are good with money. Money only comes to those who are ready to handle it. If you take care of $1,000, you'll get $10,000--and much more! 

Quy luật của sự thành công (Phần 1)

Mỗi ngày trôi qua dường như mỗi ngày tôi lại mất cơ hội, để cho thời trẻ trôi qua một cách lãng phí. Với một người có nhiều dự định, hoài bão cần thực hiện như tôi, có lẽ thời gian là một trong những kẻ thù lớn nhất. Tôi đang không ngừng đấu tranh, không ngừng tìm cách để chiến thắng giới hạn thời gian. Có lẽ tôi nên đặt mục tiêu và biết quản lý thời gian sao cho hiệu quả.
Người xưa từng đúc kết biết bao nhiêu câu tục ngữ châm ngôn khuyên dạy mọi người phải biết quý trọng thời gian. "thời gian là vàng", ai hay ngủ ngày thì lãng phí nửa cuộc đời. Có lẽ mọi người đã dần ý thức được tầm quan trọng của nó khi có những việc khẩn cấp phải thực hiện ngay. Chỉ thêm vài phút đồng hồ, người bệnh có thể được cứu sống. Chỉ thêm vài giờ đồng hồ, đám cháy sẽ được dập tắt.Chỉ thêm vài ngày nữa, công trình sẽ được hoàn thành. Khi đứng trước một hoàn cảnh, bạn mới ý thức ý nghĩa thời gian.
1. Bố trí thời gian hợp lý
Mỗi người ai cũng có 24 giờ mỗi ngày. Nhưng mỗi người lại có cách sử dụng nó khác nhau dẫn đến hiệu quả công việc cũng khác nhau. Chẳng hạn, có người dành nhiều giờ cho giải trí ngược lại có người dành thời giờ cho làm việc... và chính điều đó sẽ quyết định nên số phận, con người bạn. Bạn sẽ không thể thành công trong công việc nếu như bạn không đầu tư thời gian nhiều. Bạn không thể học giỏi nếu suốt ngày chơi game và ngủ. Chính vì lẽ đó, sắp xếp thời khóa biểu trong tuần, chia việc nào giờ nấy trong ngày giúp bạn có một cuộc sống lành mạnh, khoa học và hiệu quả. Hãy là một người khôn ngoan khi biết cách sử dụng thời gian hợp lý.
2. Đặt mục tiêu
Hãy quan sát việc xây nhà, bạn sẽ biết được sức mạnh của sự tập trung. Chẳng thể có được ngôi nhà nếu như người thợ không đặt gạch. Và nếu không có một bản thiết kế, vật liệu và công sức mỗi ngày, chắc hẳn ngôi nhà không được tạo thành. Bạn có thể giỏi tiếng Anh nếu hằng ngày, bạn học tiếng Trung. Tất cả đều có một nguyên nhân, nếu bạn không có mục tiêu, bạn không làm điều gì tốt đẹp cả.
3. Kiên định
Thời gian có thể xoa dịu nỗi đau. Thời gian cũng có thể làm nên một con người. Ngoài có một mục tiêu, bố trí lịch hợp lý, bạn cũng phải kiên nhẫn chịu đựng những thử thách, chướng ngại vật cản trở trên con đường thành công. Chỉ khi dành thời gian đủ, thành công sẽ đến với bạn. Chẳng còn cách nào khác giúp bạn đạt những ước mơ cho bằng kiên trì theo đuổi mỗi ngày.
Tóm lại, hãy có ước mơ, mục tiêu phấn đấu, bố trí thời gian hợp lý và kiên trì đến cùng.
Chúc bạn thành công!!!!